Jan Hus (nee Jan iz Gusinets; 1369-1415) - Nhà thuyết giáo, nhà thần học, nhà tư tưởng và nhà tư tưởng người Séc của cuộc Cải cách Séc. Anh hùng dân tộc của nhân dân Séc.
Sự giảng dạy của ông đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia Tây Âu. Vì niềm tin của chính mình, ông đã bị thiêu cháy cùng với những lao động của mình trên cây cọc, dẫn đến Chiến tranh Hussite (1419-1434).
Có rất nhiều sự thật thú vị trong tiểu sử của Jan Hus mà chúng tôi sẽ kể trong bài viết này.
Vì vậy, đây là một tiểu sử ngắn của Gus.
Tiểu sử của Jan Hus
Jan Hus sinh năm 1369 (theo các nguồn khác là 1373-1375) tại thành phố Husinets thuộc Bohemian (Đế chế La Mã). Anh lớn lên và được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân nghèo.
Khi Jan khoảng 10 tuổi, cha mẹ anh gửi anh đến một tu viện. Cậu là một đứa trẻ ham học hỏi, vì vậy cậu đã nhận được điểm cao trong tất cả các môn học. Sau đó, chàng trai trẻ đến Praha để tiếp tục con đường học vấn.
Khi đến một trong những thành phố lớn nhất ở Bohemia, Hus đã vượt qua thành công các kỳ thi tại Đại học Praha. Theo các giáo viên, cậu bé được phân biệt bởi hành vi tốt và mong muốn tiếp thu kiến thức mới. Vào đầu những năm 1390, ông nhận bằng Cử nhân Thần học.
Vài năm sau, Jan Hus trở thành một bậc thầy về nghệ thuật, điều này cho phép anh ta thuyết trình trước công chúng. Năm 1400, ông trở thành một giáo sĩ, sau đó ông đảm nhận công việc rao giảng. Theo thời gian, ông được giao phó trưởng khoa nghệ thuật tự do.
Năm 1402-03 và 1409-10, Huss được bầu làm hiệu trưởng trường Đại học Praha quê hương ông.
Công việc rao giảng
Jan Hus bắt đầu rao giảng vào khoảng 30 tuổi. Ban đầu, ông có các bài phát biểu trong Nhà thờ Thánh Michael, và sau đó trở thành hiệu trưởng và nhà thuyết giảng của Nhà nguyện Bethlehem. Một sự thật thú vị là có tới 3000 người đến nghe linh mục!
Điều đáng chú ý là trong các bài giảng của mình, ông không chỉ nói về Đức Chúa Trời và những lời hứa của Ngài, mà còn chỉ trích các đại diện của giới tăng lữ và nông dân lớn.
Đồng thời, lên án hành động của nhà thờ, anh ta tự xưng là kẻ theo cô, vạch trần tội lỗi của nhà thờ và bộc lộ những tệ nạn của con người.
Trở lại giữa những năm 1380, các tác phẩm của nhà thần học và nhà cải cách người Anh John Wycliffe đã trở nên phổ biến ở Cộng hòa Séc. Nhân tiện, Wycliffe là người dịch Kinh Thánh đầu tiên sang tiếng Anh Trung. Sau đó, Giáo hội Công giáo gọi các tác phẩm của ông là dị giáo.
Trong các bài giảng của mình, Jan Hus đã bày tỏ những ý kiến trái ngược với chính sách của giáo hoàng. Đặc biệt, ông lên án và kêu gọi những điều sau đây:
- Không thể chấp nhận được việc thu phí quản lý các giáo lễ và bán các văn phòng của nhà thờ. Chỉ cần một giáo sĩ trả một khoản tiền khiêm tốn từ những người giàu có là đủ để tự cung cấp cho mình những thứ cần thiết nhất.
- Bạn không thể mù quáng tuân theo nhà thờ, mà ngược lại, mỗi người nên suy ngẫm về những giáo điều khác nhau, dựa vào lời khuyên từ Tân Ước: "Nếu kẻ mù dắt người mù, thì cả hai sẽ sa vào hố sâu."
- Quyền lực không tuân giữ các điều răn của Đức Chúa Trời sẽ không được Ngài công nhận.
- Chỉ mọi người mới có thể sở hữu tài sản. Người giàu bất chính là một tên trộm.
- Bất kỳ Cơ đốc nhân nào cũng nên tìm kiếm lẽ thật, ngay cả khi gặp rủi ro về hạnh phúc, hòa bình và sự sống.
Để truyền tải ý tưởng của mình đến khán giả một cách tốt nhất có thể, Huss đã đặt hàng vẽ các bức tường của Nhà nguyện Bethlehem bằng những hình ảnh với các chủ đề hướng dẫn. Anh cũng đã sáng tác một số bài hát nhanh chóng trở nên phổ biến.
Jan tiếp tục cải cách ngữ pháp tiếng Séc, làm cho cuốn sách có thể hiểu được ngay cả đối với những người thất học. Chính ông là tác giả của ý tưởng rằng mỗi âm thanh của lời nói được chỉ định bởi một chữ cái cụ thể. Ngoài ra, ông cũng giới thiệu các dấu phụ (những dấu được viết trên các chữ cái).
Năm 1409, đã có những cuộc thảo luận sôi nổi tại Đại học Praha về những lời dạy của Wycliffe. Điều đáng chú ý là Tổng giám mục Praha, cũng như Hus, ủng hộ các ý tưởng của nhà cải cách tiếng Anh. Trong cuộc tranh luận, Yang công khai nói rằng nhiều giáo lý được trình bày cho Wycliffe chỉ đơn giản là bị hiểu sai.
Sự phản đối nghiêm trọng từ các giáo sĩ đã buộc tổng giám mục phải rút lại sự ủng hộ của mình khỏi Hus. Ngay sau đó, theo lệnh của những người Công giáo, một số bạn bè của Jan đã bị giam giữ và bị buộc tội là tà giáo, những người bị áp lực đã quyết định từ bỏ quan điểm của mình.
Sau đó, kẻ phản bội Alexander V đã ra lệnh chống lại Huss, dẫn đến việc cấm các bài giảng của ông ta. Đồng thời, tất cả các tác phẩm đáng ngờ của Jan đều bị phá hủy. Tuy nhiên, chính quyền địa phương đã tỏ ra ủng hộ anh.
Bất chấp mọi áp bức, Jan Hus rất có uy tín trong giới bình dân. Một sự thật thú vị là khi bị cấm đọc các bài giảng trong nhà nguyện riêng, ông đã từ chối vâng lời, và tự mình cầu xin Chúa Giê-su.
Năm 1411, Tổng giám mục Praha Zbinek Zajic gọi Hus là kẻ dị giáo. Khi Vua Wenceslas IV, người trung thành với nhà truyền đạo, phát hiện ra điều này, ông đã gọi những lời của Zayits là vu khống và ra lệnh tước đoạt tài sản của những giáo sĩ đã truyền bá “lời vu khống” này.
Jan Hus đã chỉ trích gay gắt việc bán các vật phẩm hưởng thụ, bằng cách mua mà một người được cho là đã tự giải thoát khỏi tội lỗi của mình. Ông cũng phản đối việc đại diện của các giáo sĩ giơ thanh kiếm về phía đối thủ của họ.
Nhà thờ bắt đầu ngược đãi Hus nhiều hơn, vì lý do đó, ông buộc phải chạy trốn đến Nam Bohemia, nơi các thị tộc địa phương không tuân theo các sắc lệnh của giáo hoàng.
Tại đây, ông tiếp tục tố cáo và chỉ trích các nhà chức trách giáo hội và thế tục. Người đàn ông kêu gọi Kinh thánh là cơ quan quyền lực tối cao cho các giáo sĩ và hội đồng nhà thờ.
Lên án và xử tử
Năm 1414, Jan Hus được triệu tập đến Nhà thờ Constance, với mục đích ngăn chặn Chủ nghĩa chia rẽ Tây Phương vĩ đại, vốn dẫn đến các Giáo hoàng Ba ngôi. Điều tò mò là quốc vương Đức Sigismund của Luxembourg đã đảm bảo an ninh hoàn toàn cho Séc.
Tuy nhiên, khi Jan đến Constance và nhận được một lá thư bảo vệ, hóa ra là nhà vua đã đưa cho anh ta một bức thư du lịch thông thường. Giáo hoàng và các thành viên của hội đồng đã buộc tội ông là tà giáo và tổ chức trục xuất người Đức khỏi Đại học Praha.
Sau đó Gus bị bắt và bị đưa vào một trong những căn phòng của lâu đài. Những người ủng hộ nhà thuyết giáo bị kết án cáo buộc Hội đồng vi phạm luật pháp và lời thề hoàng gia về sự an toàn của Jan, giáo hoàng trả lời rằng cá nhân ông không hứa bất cứ điều gì với bất kỳ ai. Và khi họ nhắc Sigismund về điều này, anh ta vẫn không bênh vực người tù.
Vào giữa năm 1415, các quý tộc Moravian, Seimas của Bohemia và Moravia, và sau đó là giới quý tộc Séc và Ba Lan đã gửi một bản kiến nghị tới Sigismund yêu cầu Jan Hus được trả tự do, có quyền phát biểu tại Hội đồng.
Kết quả là nhà vua đã tổ chức một phiên điều trần vụ án của Hus tại nhà thờ lớn, diễn ra trong 4 ngày. Jan bị kết án tử hình, sau đó Sigismund và các tổng giám mục liên tục thuyết phục Hus từ bỏ quan điểm của mình, nhưng bị từ chối.
Vào cuối phiên tòa, người bị kết án lại kháng cáo với Chúa Giê-su. Vào ngày 6 tháng 7 năm 1415, Jan Hus bị thiêu rụi trên cây cọc. Có một truyền thuyết kể rằng người phụ nữ già, vì ý định ngoan đạo, đã trồng cây chổi vào bếp lửa của ông, ông đã thốt lên: "Ôi, sự đơn sơ thánh thiện!"
Cái chết của nhà truyền giáo người Séc đã dẫn đến sự hình thành và củng cố của phong trào Hussite ở Cộng hòa Séc và là một trong những nguyên nhân dẫn đến bùng nổ các cuộc chiến tranh Hussite, giữa những người theo ông (Hussite) và người Công giáo. Cho đến ngày nay, Giáo hội Công giáo vẫn chưa phục hồi Hus.
Mặc dù vậy, Jan Hus là một anh hùng dân tộc ở quê hương của mình. Năm 1918, Nhà thờ Hussite Tiệp Khắc được thành lập, hiện nay số giáo dân khoảng 100.000 người.
Ảnh của Jan Hus