Seren Obu Kierkegaard (1813-1855) - Nhà triết học tôn giáo, nhà tâm lý học và nhà văn Đan Mạch. Người sáng lập chủ nghĩa hiện sinh.
Có rất nhiều sự kiện thú vị trong tiểu sử của Seren Kierkegaard, mà chúng tôi sẽ nói đến trong bài viết này.
Vì vậy, đây là một tiểu sử ngắn của Kierkegaard.
Tiểu sử của Serena Kierkegaard
Seren Kierkegaard sinh ngày 5 tháng 5 năm 1813 tại Copenhagen. Anh lớn lên và được nuôi dưỡng trong gia đình của một thương gia giàu có Peter Kierkegaard. Nhà triết học là con út của cha mẹ ông.
Sau khi người chủ gia đình qua đời, các con ông có được một tài sản kha khá. Nhờ vậy mà Seren được học hành đến nơi đến chốn. Ở tuổi 27, ông tốt nghiệp thành công khoa thần học của Đại học Copenhagen.
Một năm sau, Kierkegaard được trao bằng thạc sĩ, đã bảo vệ luận án của mình "Về khái niệm trớ trêu, với một lời kêu gọi liên tục đối với Socrates." Điều quan trọng cần lưu ý là các bậc cha mẹ từ thời thơ ấu đã truyền cho con cái tình yêu thương đối với Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên, sau khi vào đại học và làm quen với triết học Hy Lạp, Serenus đã sửa đổi quan điểm tôn giáo của mình. Anh bắt đầu phân tích những gì được viết trong Kinh Thánh từ một góc độ khác.
Triết học
Năm 1841, Kierkegaard định cư tại Berlin, nơi ông dành nhiều thời gian để suy nghĩ về cuộc sống con người và thiên nhiên. Đồng thời, ông sửa đổi các giáo lý tôn giáo mà ông đã tuân thủ trong thời thơ ấu và thiếu niên.
Chính trong khoảng thời gian viết tiểu sử này, Seren bắt đầu hình thành những ý tưởng triết học của mình. Năm 1843, ông xuất bản tác phẩm nổi tiếng của mình "Ili-Ili", nhưng không phải dưới tên riêng của mình, mà dưới bút danh Viktor Eremit.
Trong cuốn sách này, Seren Kierkegaard đã mô tả 3 giai đoạn tồn tại của con người: thẩm mỹ, đạo đức và tôn giáo. Theo tác giả, giai đoạn phát triển cao nhất của con người là tôn giáo.
Vài năm sau, một luận thuyết cơ bản khác của Kierkegaard, Các giai đoạn của Đường đời, được xuất bản. Sau đó, trọng tâm là một tác phẩm khác của triết gia "Fear and Awe", đề cập đến đức tin vào Chúa.
Cuốn sách "Bệnh đến chết" đã khơi dậy không ít sự quan tâm của độc giả. Đó là một tác phẩm tôn giáo dành cho phép biện chứng của sự tuyệt vọng, về các loại tội lỗi. Theo sự hiểu biết của ông, tội lỗi có nghĩa là dưới hình thức của sự tuyệt vọng, và tội lỗi không được xem là trái ngược với hành vi công bình mà là đức tin.
Trong suốt cuộc đời của mình, Soren Kierkegaard đã trở thành ông tổ của chủ nghĩa hiện sinh - một xu hướng triết học của thế kỷ 20, tập trung vào tính duy nhất của sự tồn tại của con người. Ông nói một cách cực kỳ tiêu cực về chủ nghĩa duy lý, và cũng chỉ trích những người ủng hộ một cách tiếp cận chủ quan đối với triết học.
Kierkegaard gọi sự tồn tại chỉ là những thứ không cho lý do để nghĩ về bản thân, bởi vì nghĩ về điều gì đó, một người can thiệp vào quá trình tự nhiên của quá trình của sự vật. Do đó, đối tượng đã bị thay đổi bởi sự quan sát và do đó không còn tồn tại.
Trong triết học hiện sinh, thông qua trải nghiệm các sự kiện, chứ không phải thiền định, chúng ta mới có thể biết được thế giới xung quanh. Sự thật khách quan được nhận thức, và sự thật hiện sinh chỉ nên được trải nghiệm.
Trong những năm cuối của cuốn tiểu sử của mình, Soren Kierkegaard đã đặc biệt phê phán tính cách tính toán của đời sống Cơ đốc nhân, cụ thể là mong muốn được sống hạnh phúc và thoải mái, đồng thời tự xưng mình là một Cơ đốc nhân. Trong tất cả các hình thức quyền lực, ông chỉ ra chế độ quân chủ, trong khi ông coi nền dân chủ là tệ nhất.
Đời tư
Khi Kierkegaard khoảng 24 tuổi, anh gặp Regina Olsen, hơn anh 9 tuổi. Cô gái cũng quan tâm đến triết học, liên quan đến việc các bạn trẻ có nhiều chủ đề chung để giao tiếp.
Năm 1840, Serain và Regina tuyên bố đính hôn. Tuy nhiên, gần như ngay lập tức anh chàng bắt đầu nghi ngờ rằng mình có thể là một người đàn ông mẫu mực của gia đình. Về vấn đề này, sau khi kết thúc hôn ước, anh ấy đã dành tất cả thời gian rảnh rỗi của mình cho việc viết lách.
Khoảng một năm sau, Kierkegaard viết một bức thư cho cô gái, trong đó anh thông báo chia tay. Anh giải thích quyết định của mình là do anh sẽ không thể kết hợp công việc với cuộc sống hôn nhân. Kết quả là, nhà tư tưởng vẫn độc thân cho đến cuối đời và không có con cái.
Tử vong
Seren Kierkegaard qua đời vào ngày 11 tháng 11 năm 1855 ở tuổi 42. Vào lúc cao điểm của dịch cúm, anh mắc bệnh lao, khiến anh qua đời.
Kierkegaard Ảnh